

It looks like your browser does not have JavaScript enabled. Please turn on JavaScript & try again.
CPTPP cũng chính là FTA trước tiên mà cơ quan chính phủ có Kế hoạch triển khai CPTPP, trong số ấy có xây dựng điều khoản là nhóm trách nhiệm trọng trung ương hàng đầu, với khá nhiều văn phiên bản pháp luật cần phải xây dựng new hoặc điều chỉnh, té sung. Công tác xây dựng điều khoản thực thi CPTPP biến hóa điểm khác hoàn toàn nổi nhảy của hiệp định so cùng với 10 FTA đang thực thi trước kia của Việt Nam. Phần này gửi ra tranh ảnh tổng quan lại về chuyển động xây dựng pháp luật thực thi CPTPP thông qua việc diễn giải những vấn đề cơ bản của hoạt động xây dựng quy định thực thi CPTPP ở nước ta (Mục I) cùng từ đó dấn diện những nhiệm vụ xây cất pháp luật rõ ràng nhằm thực hiện CPTPP của vn (Mục II).
Đây đang là các thông tin chi phí đề quan trọng để kiểm tra soát, review hiệu quả hoạt động xây dựng lao lý thực thi CPTPP của nước ta trong giai đoạn vừa qua (2019-2021) và sự chuẩn bị cho công tác làm việc này ở phần đa năm tiếp sau trong quá trình thực thi Hiệp định quan trọng đặc biệt này.
Lược sử về CPTPP
CPTPP đã trải qua một số lần đổi tên trong suốt một thập kỷ rưỡi tồn tại. Ban đầu CPTPP có tên là P4, lần đổi tên đầu tiên của hiệp định này có hiệu lực vào năm 2006, khi New Zealand, Chile, Singapore và Brunei ký Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương. Năm 2010, Hoa Kỳ, Úc, Việt Nam và Peru đã tham gia đàm phán với các thành viên P4 và để thể hiện sự gia tăng về số lượng thành viên, hiệp định được đổi tên thành TPP. Trong những năm tiếp theo, Malaysia (2010), Canada (2012), Mexico (2012) cùng Nhật phiên bản (2013) cũng gia nhập đàm phán. Các cuộc đàm phán TPP kết thúc vào năm 2015 và tất cả 12 thành viên đã ký hiệp định vào năm 2016. Tuy nhiên, vào năm 2017, Hoa Kỳ đã thông báo cho các thành viên khác rằng họ không tồn tại ý định trải qua hiệp định này. Việc Hoa Kỳ rời khỏi TPP đã làm đình trệ tiến trình phê chuẩn hiệp định và 11 thành viên còn lại đã họp để xác định các bước hành động tiếp theo. Sau nhiều cuộc họp trong suốt cả năm 2017, các quan chức đã kết thúc đàm phán và quyết định tên hotline chính thức là CPTPP vào đầu năm 2018. Vào tháng 3 năm 2018, tất cả 11 quốc gia đã ký kết hiệp định cập nhật.
Các quy tắc của CPTPP quy định rằng hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ lúc có ít nhất một nửa số quốc gia thành viên (sáu quốc gia) phê chuẩn hiệp định. Sáu quốc gia đầu tiên phê chuẩn hiệp định bao gồm: Canada, Nhật Bản, Mexico, New Zealand, Singapore và Úc. Úc là quốc gia thành viên thứ sáu phê chuẩn hiệp định vào tháng 10 năm 2018 và theo đó, CPTPP có hiệu lực vào cuối năm 2018. Đợt giảm giảm thuế quan đầu tiên của CPTPP, xóa bỏ thuế đối với 89% dòng thuế quan, đã được thực hiện vào ngày hiệp định có hiệu lực vào ngày 30 tháng 12 năm 2018. Theo hiệp định, các bên tham gia CPTPP thực hiện các đợt cắt giảm thuế quan tiếp theo mỗi năm một lần cho đến khi thuế quan được xóa bỏ (hoặc giảm bớt). Điều này gồm nghĩa là đợt cắt giảm thuế quan của “năm” thứ hai có thể diễn ra chỉ một tuần sau đợt cắt giảm đầu tiên, vào tháng 1 năm 2019.
Cùng tháng đó, Hiệp Định có hiệu lực đối với Việt Nam và ngay lập tức Việt Nam thực hiện đợt cắt giảm thuế quan đầu tiên. Sáu quốc gia đã phê chuẩn CPTPP có thể lựa chọn họ có muốn Việt Nam thực hiện “bắt kịp thuế quan” hay không (ví dụ: đợt cắt giảm thuế quan thứ hai ngay sau đợt đầu tiên, vào tháng 1 năm 2019) hay để đợt cắt giảm thuế quan thứ hai thanh lịch năm sau mới thực hiện. Ngoại trừ Mexico, tất cả các quốc gia đều chọn cho phép nước ta “bắt kịp thuế quan”. Năm 2021 là năm thứ tư cắt giảm thuế quan đối với các thành viên CPTPP. Tại thời điểm soạn thảo tài liệu này, có ba quốc gia thành viên – Brunei, Chile, Malaysia – chưa phê chuẩn hiệp định, có nghĩa là hiệp định chưa có hiệu lực đối với họ. những nền kinh tế khác cũng thể hiện sự quan tâm đến việc tham gia hiệp định: Tháng 6 năm 2021, Vương quốc Anh chính thức tiến hành các cuộc đàm phán xin gia nhập CPTPP.
Các chữ cái “C” với “P” trong CPTPP tức là gì?
Mặc dù TPP mất đi một thành viên vào năm 2017, nhưng cũng đã đạt được thành tựu, đó là thêm hai chữ cái vào tên hiệp định. Cái tên TPP ban đầu được đổi thành CPTPP sau thời điểm Bộ Trưởng thương mại dịch vụ Quốc Tế hiện nay của Canada, ngài FrancoisPhilippe Champagne, đưa ra đề xuất trong các cuộc đàm phán, bổ sung chữ “C” tức là Comprehensive (Toàn Diện) và “P” có nghĩa là Progressive (Cấp Tiến).
Ngược lại, điều này đặt ra câu hỏi, chúng ta muốn nói điều gì lúc gọi hiệp định này là hiệp định toàn diện và cấp tiến? Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi hiệp định, 11 thành viên còn lại quyết định sửa đổi một số phần của hiệp định. Các quốc gia muốn xây dựng mối quan hệ đối tác dựa trên nguyên tắc thương mại tự do, bao trùm và cởi mở, một khái niệm được coi là đặc biệt cần được bảo vệ trong thời kỳ chủ nghĩa bảo hộ gia tăng trên toàn thế giới. Các FTA cũng không còn được quan tâm do tâm lý phổ biến cho rằng FTA chỉ mang lại lợi ích cho các tập đoàn đa quốc gia lớn chứ không phải cho phần còn lại của xã hội.
Với CPTPP, có sự thúc đẩy mở rộng thương mại trường đoản cú do và cởi mở và đảm bảo rằng thương mại được đề cập mang tính bao trùm – có thể nói rằng là toàn diện hơn và cấp cho tiến hơn. Từ “toàn diện” có nghĩa là làm cho hiệp định cởi mở hơn với các lĩnh vực và doanh nghiệp khác nhau. Các yếu tố toàn diện được thể hiện vào chương về SME cùng trong chương về doanh nghiệp nhà nước. Việc bổ sung từ “cấp tiến” được thể hiện trong các chương về quyền lao động và môi trường – cả hai chương đều có quy trình giải quyết tranh chấp để đảm bảo sự tuân thủ. Ngoài ra, còn có các phần té sung về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), quyền của Người Bản Địa và tính đa dạng. Thông qua việc sửa đổi hiệp định, một số điều khoản cũng đã được loại bỏ, như các cam kết chắc chắn về sở hữu trí tuệ (ví dụ: độc quyền thị trường với luật bản quyền). Nhìn chung, việc bổ sung hai từ “cấp tiến” và “toàn diện” có nghĩa là hiệp định đang cố gắng đảm bảo tính bao trùm và cố gắng đảm bảo rằng tất cả những thành phần xóm hội các được hưởng lợi từ FTA này. Việc bổ sung hai từ “toàn diện” và “cấp tiến” không phải là lời giải thích đến sau hành động trong quá trình này. Hai khái niệm này là những khía cạnh quan trọng của CPTPP, bằng chứng là chúng là hai chữ cái đầu tiên trong tên của hiệp định.
Với một nghị trình thương mại bao trùm, nhằm mở rộng lợi ích thương mại rộng rãi hơn cho các nhóm như SME, Người Bản Địa và phụ nữ, Canada sẽ không tham gia ngẫu nhiên FTA làm sao khi số đông khái niệm này không được đặt làm cho trọng tâm. Hy vọng cuối cùng để tạo ra một hiệp định toàn diện và cấp tiến là các quan điểm về tính bao trùm, thương mại cởi mở, quyền lao động và môi trường sẽ tạo ra một tiêu chuẩn cho các FTA khác, hy vọng một ngày nào đó sẽ trở thành chuẩn mực quốc tế.
Theo: moit.gov.vn