Mới đây, cuốn sách "Ngôn ngữ ở Việt Nam - Hội nhập và phát triển" (tập 1) dày 2.200 trang, do NXB Dân trí phát hành, nhân Hội thảo ngữ học toàn quốc được tổ chức tại Trường ĐH Quy Nhơn tháng 9/2017, trong nhiều bài viết của các nhà ngôn ngữ học, có bài “Chữ quốc ngữ và hội nhập quốc tế” củaPGS.TS. Bùi Hiền, nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, nguyên phó Viện trưởng Viện Nội dung & Phương pháp dạy - học phổ thông với đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt.
Theo đó, ông Bùi Hiền cho rằng trải qua gần một thế kỷ, đến naychữ quốc ngữbộc lộ nhiều bất hợp lý, nên cần cải tiến để giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư...
Trả lờiPV, PGS. TS Bùi Hiền cho biết: "Ngay trong cuốn kỷ yếu này tôi mới hoàn thiện phần phụ âm, còn nguyên âm tôi với đang trong quá trình hoàn thành. Sở dĩ đề xuất của tôi bị ném đá vì họ mới chỉ nhìn qua mặt chữ mới mà chưa đọc hết bài viết đăng trong cuốn kỷ yếu. Nếu họ đọc hết, tôi tin họ sẽ có cái nhìn khác".
Để bạn đọc có cái nhìn rõ hơn vềđề xuất cải cách tiếng Việtcủa PGS.TS Bùi Hiền, được sự đồng ý của tác giả,Chúng tôixin giới thiệu toàn bộ bài viết của ông được đăng trong kỷ yếu của hội thảo trên:
CẢI TIẾN CHỮ QUỐC NGỮ (phần I)
(Đề nghị một phương án)
Đặc biệt thấy rõ được ý nghĩa và tác dụng của chữ quốc ngữ, những nhà hoạt động văn hóa - giáo dục tiến bộ đã nắm thời cơ xuất bản các tờ báo, tạp chí, mở các nhà xuất bản cho in sách báo tài liệu, thành lập Hội truyền bá chữ quốc ngữ để thúc đẩy nhanh chóng việc phổ cập chữ quốc ngữ trong mọi tầng lớp nhân dân...
Sau Cách mạng tháng Tám, chữ quốc ngữ mặc nhiên được Quốc hội và Chính phủ sử dụng như một loại chữ viết chính thức thống nhất trong cả nước, từ các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, thông tin - tuyên truyền đến các cơ sở văn hóa, giáo dục.
Trải qua gần một thế kỷ, chữ quốc ngữ vẫn giữ nguyên tự dạng và chức năng, giá trị của các con chữ buổi ban đầu, mặc dù không phải một lần được các nhà ngôn ngữ, học giả chỉ ra những nhược điểm, bất hợp lý, bất tiện của chữ quốc ngữ hiện hành.
Đồng thời, nhiều ý kiến, phương án đề nghị cải tiến, nhưng đều không được xem xét và chấp nhận. Song, thực tiễn tiếng Việt hiện đại vẫn đang phát triển và hàng ngày lại phát sinh các vấn đề rắc rối mới, đặc biệt là trong giai đoạn hòa đồng tiếng nói, chữ viết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam và trong quá trình Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với cộng đồng ngôn ngữ các nước trên thế giới.
Những thay đổi trong cách viết tiếng Việt hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, thậm chí khá hỗn loạn, khiến cho công năng và hiệu lực của chữ quốc ngữ, công cụ văn hóa - trí tuệ sắc bén nhất và mạnh nhất của người Việt bị giảm sút tới mức cần báo động.
Thiết nghĩ không cần nêu dẫn chứng các hiện tượng lộn xộn về chữ in, chữ viết trong các văn bản của Nhà nước, các cơ quan báo chí, thư tín của công dân cho mất thì giờ…, vì tất cả đều đã thấy quá rõ.
Đề xuất viết "giáo dục" là "záo zụk’: Nên ủng hộ nghiên cứu nghiêm túc
Một số chuyên gia ngôn ngữ học cho rằng đề xuất cải tiến chữ viết của PGS.TS Bùi Hiền không phải mới và cần ủng hộ những nghiên cứu nghiêm túc về ngôn ngữ.
Xin so sánh và tổng hợp để thấy bức tranh chữ quốc ngữ hiện nay:
Bảng chữ cái và cách thể hiện hệ thống ngữ âm tiếng Việt chính thống xưa nay:
![]() |
PGS.TS Bùi Hiền trao đổi về phương pháp cải cách chữ tiếng Việt. (Ảnh: Kim Thược)
Bảng chữ cái :
Tổng cộng: 29 chữ cái đơn:
A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y
31 âm vị cơ bản được biểu đạt bằng những 38 chữ cái đơn và tổ hợp 2-3 chữ cái :
A Ă Â B C CH D Đ E Ê G GH GI H I K KH L.
M N NG NGH NH O Ô Ơ P Q R S T TH TR U Ư V X Y.
6 thanh (bằng, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng).
Chỉ riêng trong nội bộ bảng chữ cái nguyên thủy này đã cho thấy có nhiều điểm bất hợp lý được thừa kế từ tập quán truyền thống của chữ La tinh, chữ Bồ Đào Nha và chữ Pháp do chúng có các mối liên hệ về nguồn gốc xuất xứ họ hàng, về nội hàm ý nghĩa với nhau trong cả hệ thống không thể thoát ra ngoài được.
Thế nhưng, các chữ cái trong hệ thống chữ quốc ngữ của Việt Nam lại không có liên quan gì với nhau, mà chỉ là cách ghi âm ngẫu nhiên các âm vị của những phương ngữ (chí ít cũng là ngữ âm tiếng Đàng Ngoài và tiếng Đàng Trong) trong tiếng Việt. Vậy mà chữ quốc ngữ của chúng ta cứ phải lưu giữ và tuân thủ một cách máy móc những bất hợp lý đó :
- Dùng 2-3 chữ cái để biểu đạt một âm vị phụ âm đứng đầu vần (theo ngữ âm cơ bản của tiếng thủ đô Hà Nội, tạm lấy làm ngữ âm chuẩn của tiếng Việt):
C - K - Q >
CH - TR >
D - GI - R >
G - GH >
NG - NGH >
NH >
PH >
như pha - phê; phông - phúc
S – X > như sa - xa; súc - xúc
CH - TR >
- Dùng 2 chữ cái ghép lại để biểu đạt một số âm vị phụ âm đứng cuối vần như: CH, NG, NH như: mách, ông, tanh.
- Ngược lại cũng có trường hợp dùng một chữ cái để biểu thị các âm khác nhau như: ca - ceo, centimet, ga - gi, ra vào - ra đi ô, soda - adida, GDP - DDT, so sánh - laser, iso, composit…
Ngoài ra, trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt (Kinh) với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số có chữ viết đã La tinh hóa, đặc biệt là với một vài tiếng nước ngoài phổ biến thuộc khu vực chịu ảnh hưởng chữ viết La tinh như Anh, Pháp, Tây Ban Nha…, nhiều người tự ý dùng một số chữ cái hoặc tổ hợp các chữ cái của các thứ tiếng đó để bổ sung cho tiếng Việt trong bài viết của mình.
Đó là fi-lê, fim, sun-fat, Ja-va, ja-ket, jăm-bông, jin, ben-zen, Đăk Lăk, crôm, gra-nit, krưm, prô-tit, sta-to, stơ-re-sơ, trô-pi-can, H’mông, M’nông, Xrê-pốc, Plei-ku…, hoặc tự ý giữ nguyên giá trị của một vài chữ cái tiếng nước ngoài mà không thay đổi cho đúng với giá trị âm vị của chữ cái tiếng Việt như a-di-da, sô-da, radio, video, gen, lô gich, logistic,…